HÓA TRỊ TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG
Hóa trị là một trong những phương pháp điều trị ung thư đại tràng được sử dụng ở các bệnh nhân có chỉ định của bác sĩ. Sự phát triển của y học đã cho ra đời nhiều loại thuốc hóa chất có tác dụng điều trị bệnh. Tuy nhiên, bệnh nhân ung thư đại tràng trong và sau hóa trị có thể gặp phải một số tác dụng không mong muốn.
1. Hóa trị ung thư đại tràng
Chỉ định hóa trị được đặt ra ở từng giai đoạn bệnh nhằm các mục đích khác nhau, có thể sử dụng phương pháp hóa trị đơn thuần nhưng thường hay kết hợp hóa trị với các phương pháp khác:
- Hóa trị bổ trợ: Hóa trị bổ trợ là dùng thuốc hóa chất để điều trị sau phẫu thuật. Hóa trị bổ trợ nhằm mục đích tiêu diệt các tế bào ung thư có khả năng còn sót lại sau phẫu thuật ung thư đại tràng, nhằm giảm nguy cơ tái phát bệnh.
- Hoá trị tân bổ trợ: Là hóa trị được đặt ra ở các bệnh nhân ung thư đại tràng có khối u lớn chưa thể phẫu thuật được. Hóa trị tân bổ trợ nhằm mục đích làm giảm kích thước u, hỗ trợ cho phẫu thuật đại tràng sau này được thuận lợi và đạt được hiệu quả điều trị.
- Hoá trị triệu chứng (hay còn gọi là hóa trị giảm nhẹ): Bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối quá chỉ định phẫu thuật, không còn khả năng điều trị triệt để sẽ được cân nhắc phác đồ hóa trị triệu chứng để thu nhỏ khối u, hỗ trợ giảm nhẹ triệu chứng và kéo dài thời gian sống.
Hiện nay tại bệnh viện Ung Bướu tỉnh Bắc Giang có đầy đủ các phương pháp điều trị hóa trị trong ung thư đại trực tràng mang lại nhiều hiệu quả trong quá trình điều trị bệnh nhân ung thư đại trực tràng
2. Chỉ định hóa trị ung thư đại tràng
Việc chỉ định loại hóa chất điều trị ung thư đại tràng phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Đặc điểm bệnh học và giai đoạn bệnh ung thư đại tràng: Tùy thuộc vào đặc điểm bệnh học (giải phẫu bệnh, hóa mô miễn dịch, đột biến gen,...) cũng như giai đoạn bệnh mà bệnh nhân sẽ được lên những kế hoạch điều trị với mục tiêu điều trị khác nhau.
- Toàn trạng chung của bệnh nhân: Tuổi tác, thể lực, bệnh kèm,... là những yếu tố được cân nhắc khi sử dụng phương pháp hóa trị cho bệnh nhân để vừa đạt được mục đích điều trị vừa tránh được các độc tính lên các cơ quan khác trong cơ thể người bệnh.
- Mức độ đáp ứng với các loại hóa chất trước đó: Bệnh nhân đã từng hóa trị với một hoặc nhiều loại hóa chất trước đó sẽ được đánh giá đáp ứng điều trị, từ đó cân nhắc việc điều chỉnh liều lượng hay đổi phác đồ hóa chất khác để đạt được hiệu quả điều trị.
- Nguyện vọng điều trị của bệnh nhân: Sự hợp tác, đồng ý của bệnh nhân thuộc về quy chế chuyên môn. Sau khi được bác sĩ giải thích điều trị, hiểu rõ về lợi ích cũng như nguy cơ của phương pháp hóa trị, bệnh nhân sẽ đưa ra quyết định điều trị và phối hợp với nhân viên y tế để phát hiện các dấu hiệu bất thường, những tác dụng phụ không mong muốn trong quá trình điều trị hóa chất và xử trí kịp thời.
Tại bệnh viện Ung Bướu tỉnh Bắc Giang các bệnh nhân đều được thăm khám và kiêm tra cận lâm sàng đầy đủ để chuẩn bị cho các phương án điều trị hóa chất , để có thể đưa ra phương án điều trị kịp thời cho bệnh nhân an toàn và hiệu quả
Bs Trưởng khoa Nội TH – BV Ung Bướu tỉnh Bắc Giang thăm khám bệnh nhân trước điều trị hóa trị
3. Các nhóm thuốc hóa chất điều trị ung thư đại tràng
Các loại hóa chất thường được sử dụng trong ung thư đại tràng là:
- Fluoropyrimidine và các dẫn chất: Fluoropyrimidine là hóa chất có hiệu quả được ghi nhận đầu tiên trong điều trị ung thư đại tràng. Các loại hóa chất Fluoropyrimidine thường gặp trên thị trường là 5-Fluorouracil (đường tĩnh mạch), Capecitabine (đường uống),...
- Calcium folinat: Calcium folinat là muối calci của acid folinic, dạng có hoạt tính của acid folic. Calcium folinat làm tăng tác dụng đáng kể của 5-Fluorouracil (5-FU) khi phối hợp với hóa chất này
- Oxaliplatin: Oxaliplatin là dẫn xuất platinum thế hệ ba.. Oxaliplatin tăng hiệp lực khi kết hợp với 5-Fluorouracil.
- Irinotecan: Irinotecan là dẫn xuất bán tổng hợp gây độc tế bào thông qua sự bất hoạt Topoisomerase I, từ đó làm tổn thương chuỗi đơn DNA.
Hiện tại bệnh viện Ung Bướu tỉnh Bắc Giang đã có đầy đủ hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư đại trực tràng , các thuốc hầu hết nằm trong danh mục thuốc được Bảo hiểm y tế chi trả, vì vậy bệnh nhân khi điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu tỉnh Bắc Giang sẽ hạn chế được việc di chuyển lên Bệnh viện tuyến Trung Ương mà vẫn có đầy đủ hầu hết thuốc hóa chất được dùng
4. Tác dụng phụ của hóa trị ung thư đại tràng
Các tác dụng phụ của hoá trị ung thư đại tràng phụ thuộc vào loại hóa chất, liều dùng, cũng như cơ địa, thể trạng của bệnh nhân. Các tác dụng không mong muốn thường gặp trong hoá trị ung thư đại tràng bao gồm:
- Buồn nôn nôn, mệt mỏi, chán ăn: Buồn nôn, nôn mửa, mệt mỏi, chán ăn là các tác dụng phụ thường gặp khi điều trị với các loại hóa chất. Tác dụng phụ này thường không quá nghiêm trọng và sẽ giảm dần khi hoạt chất của thuốc được đào thải
- Độc tính thần kinh ngoại biên: Bệnh nhân hóa trị với Oxaliplatin (trong các phác đồ CAPOX, FOLFOX,...) thường gặp tác dụng không mong muốn lên thần kinh ngoại biên với các biểu hiện tê môi/ lưỡi/ răng, cứng hàm, dị cảm, vướng họng. Độc tính thần kinh ngoại biên có thể gặp ngay đợt điều trị đầu tiên với Oxaliplatin hoặc sau nhiều đợt hóa trị.
- Hội chứng bàn tay, bàn chân: Hội chứng bàn tay-bàn chân là một trong những tác dụng phụ của hóa trị ung thư đại tràng có thể gặp ở bệnh nhân điều trị với hóa chất Capecitabine. Biểu hiện thường gặp là sạm da, khô da lòng bàn tay/ bàn chân, có thể dẫn đến bong tróc da, tổn thương móng tay/ móng chân.
- Tiêu chảy: Tiêu chảy có thể xảy ra khi điều trị hóa chất, đặc biệt là Irinotecan, khiến bệnh nhân mệt mỏi, mất nước và có thể kiệt sức do rối loạn cân bằng nước - điện giải. Cần theo dõi số lần tiêu chảy trong ngày và mức độ tiêu chảy của bệnh nhân. Chú ý phân biệt tiêu chảy do hóa chất hay do các nguyên nhân khác như viêm dạ dày - ruột,...
- Rụng tóc: Ngoài tác dụng phụ gây tiêu chảy nặng, Irinotecan còn gây rụng tóc, điều này có thể ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh nhân.
- Giảm bạch cầu, tiểu cầu sau hóa trị: Cũng như các loại hóa chất điều trị ung thư khác, hóa trị ung thư đại tràng cũng có thể ảnh hưởng đến hệ tạo máu của cơ thể với tình trạng giảm bạch cầu và/hoặc giảm tiểu cầu sau hóa trị. Bệnh nhân biểu hiện triệu chứng, nhưng cũng có thể có sốt hay có nguy cơ nhiễm trùng. hoặc biểu hiện với các dấu xuất huyết dưới da (chấm xuất huyết, mảng bầm tím,...); chảy máu niêm mạc như chảy máu mũi, chảy máu chân răng hay chảy máu đường tiêu hóa, đường tiết niệu,...
.